Hồi đang còn ở bộ đội, một lần tôi được phái cử xuống Trung đoàn huấn luyện làm công tác xoá mù chữ cho tân binh. Cả Trung đoàn đang khẩn trương huấn luyện quân để đi chiến trường K (Căm-pu-chia). Lính tráng rất trẻ nhưng có một số không biết đọc, biết viết, số này quê ở ven biển Thanh Hoá, Nghệ An và vùng núi cao. Chúng tôi tuyển được khoảng 30 anh em. Buổi sáng ra thao trường luyện tập cùng đồng đội nhưng đến chiều tập trung về lớp học chữ. Tôi phụ trách chính và một anh B trưởng của Trung đoàn vừa đứng lớp vừa quản lý học viên. Tài liệu là 1 cuốn sách mỏng của Cục Quân huấn được phân bổ trong 50 buổi.
Buổi đầu khai
giảng, anh em rất hào hứng và háo hức muốn biết chữ ngay. Chúng tôi viết vào tờ
giấy can to như cái chiếu nội dung bài Quốc ca và yêu cầu cả lớp hát cho thật
thuộc. Tôi viết lên bảng 2 chữ cái i và t rồi hỏi: “Hai chữ ấy giống nhau và
khác nhau chỗ nào?”. Sau đó cho từng người lên tìm 2 chữ đó. Tôi kết luận: “Các
đồng chí muốn đọc và viết được thì trước hết phải thuộc hết các chữ cái”….
Đại khái các tiết học sau cũng như vậy, tôi và chú Sơn B trưởng thay nhau đứng lớp và hướng dẫn học viên. Buổi sáng họ đi tập tôi tha thẩn lên Trung đoàn ngồi chè nước với mấy tay trợ lý, xuống bếp xem mấy em nuôi quân nấu cơm, đạp xe vào trong dân chơi với mấy ông già.
Học viên chăm chỉ học, vừa phần họ thấy sướng đã tự đánh vần được chữ, phần khác được ưu đãi nghỉ tập, nghỉ lao động để học. Giờ giải lao giảng viên, học viên gần gũi thân tình vì cùng là đồng chí cả. Trong số đó tôi lớn tuổi hơn nên các học viên cứ xưng hô thầy với em. Tôi nhớ nhất một học viên tên là Đô quê ở Hoằng Phụ, Hoằng Hoá, rất khôi ngô và chân thật. Nhiều lần Đô đã đến phòng tôi chơi kể chuyện về quê hương, gia đình mình, lại còn ngỏ ý xem tôi có nhờ làm giúp gì không.
Lớp học mở ra khoảng hơn 2 tháng thì kết thúc. Bài thi tốt nghiệp là một đề mở: “Đồng chí viết một bức thư về cho người thân ở quê nhà”. Kỳ thi rất đặc biệt vì chả có ai chép bài của ai, chả có tài liệu nào mà giở. Chúng tôi chuẩn bị sẵn phong bì, tem để họ tự bỏ vào dán lại, hướng dẫn họ ghi địa chỉ rồi đưa cho Quân bưu mang ra Bưu điện.
Sau khoá học các học viên lên đường ra mặt trận. Liên hoan và chia tay, lưu luyến và cảm động tràn trề. Đô viết vào cuốn sổ tay của tôi: “Em nhớ thày lắm chúc thày ở lại khoẻ”. Nét chữ nguệch ngoạc, mộc mạc mà ẩn chứa biết bao ân tình.
Mấy tháng sau tôi gặp lại Sơn B trưởng trong một chuyến công tác. Sau một hồi chuyện trò Sơn bảo:
- Lớp lính hồi anh em mình xoá mù, có mấy đứa đã chết rồi.
Tôi sững người:
- Sao nhanh vậy? Bị thế nào?
- Đơn vị chúng nó truy đuổi tàn quân Pol Pốt rồi vướng vào bãi mìn. Anh có nhớ thằng Đô hay lên chỗ chúng ta không? Em có thằng bạn đi cùng đợt, nó viết thư về bảo thế.
Tôi buồn lặng đi đến mấy ngày sau đó, hình ảnh của Đô cứ chập chờn ám ảnh tôi.
Bức thư nó viết về chắc cha mẹ nó phấn khởi lắm. Nhưng có biết đâu đấy chính là bức thư cuối cùng của đứa con yêu thương mà giờ đây không biết nó đang còn nằm lại ở cánh rừng nào.
Thế mà đã ngót 40 năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét