17 bài họa:
1/
Chu Hồng Trung - TRIỆU THỊ TRINH
Phó mặc duyên
tình giữa buổi xuân
Đường đường khí phách sánh minh quân
Dời non đuổi giặc đền ơn nước
Đạp sóng xua kình trả nợ dân
Chỉ tiếc trời xanh gieo bạc số
Để đau đất thẫm lấp kim thân
Thiên thu sử sách còn lưu lại
Huyền thoại anh hùng một mỹ nhân.
2/
Nuoi Cao Van - THĂM ĐỀN BÀ TRIỆU
Bước tới nơi
này một sáng xuân
Âm chuông vọng dục lệnh minh quân
Oai hùng thạch tượng hồn quân tử
Trầm mặc đền thiêng khí quốc dân
Quốc sự toan lo toàn thế cuộc
Tư gia tạm gác để đơn thân
Tích xưa tỏa sáng gương tài nữ
Nghe thoảng hương trầm thẹn cổ nhân.
3/
Dinhnguyen Nguyen – LIỆT NỮ ANH HÙNG
Sóng dữ
trùm lên lúc tuổi xuân
Tràng kình bà chém trước ba quân
Voi hùng xuất trận đền ơn nước
Ngựa chiến tung hoành báo nợ dân
Liệt nữ vinh quang lưu sử sách
Trinh Nương dũng cảm quản gì thân
Anh hào vạn thuở hương linh khí
Mãi mãi vang danh bậc chính nhân
4/
Lê Xuân Nhị
- TƯỞNG NHỚ BÀ TRIỆU
Đền thiêng
đứng đó đã bao xuân
Thờ vị anh hùng nữ tướng quân
Chiến tích muôn đời lưu quốc sử
Công lao vạn thuở tạc lòng dân
Thù nhà quyết trả nào quên phậǹ
Nợ nước mong đền chẳng tiếc thân
Nhớ lại chuyện xưa lòng những tưởng
Tùng sơn còn đó bóng kỳ nhân.́
5/
Trần Chính - CÒN ĐÓ
Còn đó
giang sơn của vạn xuân
Rạng ngời mãi mãi vị minh quân
Oai hùng mưu trí quân thù khiếp
Vì nước quên mình trọn ý dân
Biểu tượng cho đời yêu giống loại
Tấm gương soi sáng chẳng vì thân
Tiếc cho đương đại còn nhiều kẻ
Tham tước ngu hèn dối thế nhân
6/
Hà Thu - THĂM ĐỀN BÀ TRIỆU
Tôi đến đền
thiêng một sáng xuân
Lao xao tiếng gió ngỡ hồn quân
Mắt nhìn đất nước trong cơn loạn
Chứng kiến giặc kia ức hiếp dân
Nhi nữ không cam làm mọn thiếp
Anh hùng cưỡi sóng chẳng vì thân
Nén nhang nghi ngút lòng thầm nhắc
Sống tốt noi gương liệt nữ nhân
7/
Khanh Van Chi Duc -
LỄ HỘI ĐỀN BÀ TRIỆU
Lễ hội linh
đền giữa tiết xuân
Trẻ già tề chỉnh xếp hàng quân
Cờ hồng phấp phới hồng ơn Đảng
Hoa thắm rập rờn thắm nghĩa dân
Nợ nước má đào đành lỡ phận
Thù nhà liệt nữ đã quên thân
Lắng lòng mới thấy mình chưa trọn
Vẹn hiếu, vẹn tình với cổ nhân…
8/
An Trần - VIẾNG ĐỀN BÀ TRIỆU
Về đền Bà
Triệu sớm mai xuân
Thành kính dâng hương nữ tướng quân
Chiêu mộ Núi Nưa ngàn tráng sĩ
Diệt thù Ngô tặc cứu muôn dân
Hồn thiêng vang vọng lời non nước
Nghĩa hiệp lắng đau, nguyện xả thân
Thanh Hóa lập đền vùng Hậu Lộc
Ngàn thu ân bái mãi Anh nhân.
9/
Vũ Tháp - GƯƠNG XƯA
Xuân đến
xuân đi,còn mãi xuân
Gương xưa còn tỏ những minh quân
Dĩ dân vi bản - bền sông núi
Dĩ thực vi tiên - hợp ý dân
Chẳng hám lợi tư - vì nghĩa nước
Không do nóng vội - bỏ tình thân
Diên Hồng hội nghị vua tôi thuận
Sử sách mãi lưu chuyện cổ nhân
10/
Viet Hung Le –
NỮ
TƯỚNG TRIỆU THỊ TRINH
Vị quốc quên
mình, mặc tuổi xuân,
Trâm nhi thục nữ, giỏi cầm quân
Giong thuyền đạp sóng, xua bầy sói
Cưỡi gió chém kình, cứu vạn dân.
Nông Cống phất cờ, đền nợ nước,
Núi Tùng múa kiếm, quyết liều thân.
Kính thay một đấng trang anh kiệt,
Gương sáng muôn đời của thế nhân
11/
Ngô Quang Hùng - ĐỀN BÀ TRIỆU
Nữ tướng anh
hùng rạng tuổi xuân
Ngời ngời khí phách trước muôn quân
Cỡi voi xung trận yên bờ cõi
Vung kiếm chém thù đẹp ý dân
Liệt nữ thương nòi thề cứu nước
Trinh nương ái quốc nguyện quên thân
Ngàn năm Đất Việt ghi công đức
Triệu Lộc Đền thiêng phụng Thánh nhân .
12/
Quát Phạm Bá - VỌNG KIỆT NHÂN
Nào sá hy
sinh hiến tuổi xuân
Nữ nhi danh xứng đấng minh quân
Vượng hồn hào khí, hồn non nước
Trượng nghĩa anh hùng, nghĩa quốc dân
Bạch tượng - quân Ngô lo khiếp vía
Hồng quần - con Lạc dám quên thân
Đền thiêng Bà Triệu ngời muôn thưở
Dân tộc đời đời vọng kiệt nhân
13/
Dong Hoang - VIẾNG BÀ TRIỆU
Tôi về Thanh
hóa giữa mùa Xuân.
Vọng viếng Đền thiêng Triệu Tướng Quân.
Voi phục uy nghi hồn Thánh nữ.
Gác chuông trầm mặc tiếng lòng. dân.
Xông pha chiến trận lừng danh tiếng.
Cảm tử oai hùng chẳng tiếc thân.
Lịch sử ngàn năm gương sáng chói.
Ngẫm đời lại hổ với Anh nhân.
14/
Trì Nguyễn Huy - LIỆT NỮ
Vãn cảnh núi
Gai một sáng xuân
Nhớ về Bà Triệu cảnh dàn quân
Xâm lăng - Lục Dận buông lòng thú
Cứu nước - Nhụy Kiều thắm dạ dân
Nước Việt giữ mình không khuất phục
Đông Ngô bành trướng bị phơi thân
Hai mươi ba tuổi ngời danh tướng
Sử sách muôn đời tỏ rạng nhân.
15/
Huy Hoan Vũ
- BÀ TRIỆU
Mười chín
tuổi đời rạng sức xuân
Bỏ nhà lên núi để chiêu quân
Cưỡi Voi xung trận che trăm họ
Vung kiếm chém thù giúp muôn dân
Chí lớn không màng duyên phận thiếp
Tài cao chẳng muốn kiếp song thân
Công lao Bà Triệu muôn đời nhớ
Hậu Lộc đền thiêng phụng thánh nhân
16/ THĂM ĐỀN
BÀ (Lê Đình Nghĩa)
Đầu năm cùng
hội chuyến du xuân
Nhớ lại xa xưa trống giục quân
Quốc Đạt trung kiên ngời khí phách
Trinh Nương mạnh mẽ sáng lòng dân
Bên nhau đánh giặc không lùi bước
Sát cánh diệt thù chẳng tiếc thân
Sử sách còn ghi đời nhớ mãi
Anh hùng cứu nước, cứu thân nhân
17/ VIẾNG ĐỀN
BÀ TRIỆU (Dương Cung)
Viếng đền Bà
Triệu buổi đầu xuân
Đặt lễ tri ân nữ tướng quân
Thề hiến tuổi xanh, tròn nghĩa nước
Nguyện dâng sức trẻ, vẹn tình dân
Cưỡi voi ra trận, thà liều mạng
Vung kiếm xông pha, dám xả thân
Sử sách khắc ghi đời thán phục
Tỉnh Thanh đất Thánh, lắm danh nhân
ĐỀN BÀ TRIỆU (Nguyễn
Văn Cúc)
Mái ngói còn vương chút nắng xuân
Chợt nghe rầm rập bước đoàn quân
Voi gầm dậy đất hòa non nước
Ngựa hí vang trời hợp chí dân
Chém cá tràng kình cam thiệt phận
Diệt quân cướp nước dẫu quên thân
Đền thờ liệt nữ ngàn năm nhớ
Thắp nén hương lòng kính cổ nhân.
Nguyễn Xuân
Dũng – CẢM TÁC
Tên Triệu Thị Trinh sử chép ra
Cầm quân đuổi giặc bao chiến tích
Lưu danh nữ tướng nước Nam hùng
Nhỡ mãi công bà dân thờ phụng
Thời gian năm tháng chẳng phôi pha
Ngôi đền đứng đó voi vẫn phục
Bất khuất kiên trung khí phách Bà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét