Nghe
qua cái tiêu đề này hẳn nhiều người sẽ thấy rất lạ.
Ở ngay
đầu làng tôi có cái Trạm Đo nước, thực ra đó là tên thường gọi của mọi người
đối với trạm Thủy văn, một cơ quan nhà nước. Cái trạm ấy có từ thời Pháp, do
một ông Ký ăn lương trông coi.
Khoảng
năm 1959, trạm Đo nước được một ông Ký mới về phụ trách. Ông ta khá đặc biệt,
người miền Nam tập kết, giọng nói to và vang, vui tính, hay chuyện. Ông thường
mặc bộ đồ gụ bà ba như một người nông dân, cũng lao động tự phục vụ hoặc tăng
gia như bà con trong làng. Tất cả mọi người, từ người cao tuổi đến đứa con nít
đều gọi là Bác Ngoạn
Công
việc của ông rất đơn giản và nhàm chán. Cứ 2 tiếng đồng hồ ông lại phải ra cái
cột có vạch số ở ngoài sông để ghi mực nước thủy triều. Ngày nào cũng như ngày
nào, ông mẫn cán, tỷ mỷ ghi chép số liệu một cách đều đặn. Cuối tháng tổng hợp
báo cáo về Tỉnh, không cần phải cộng trừ tính toán, cũng không phải điều chỉnh
gì cả. Lúc ấy, phương tiện đi lại chủ yếu là xe đạp. Ông được Nhà nước cung cấp
cho một cái xe Stéc-ling mới toanh, đi đâu về là ông đưa ngay vào buồng treo
lên. Không cho ai mượn bao giờ, mà làng tôi lúc ấy cũng chả mấy ai biết đi xe.
Để có
người thay thế khi cần, ông hợp đồng với một người trong làng. Người này làm từ
10 giờ đêm cho đến sáng hoặc những hôm nào ông phải đi Tỉnh, đi đong gạo… Đã làm
cho ông thì phải cẩn thận, vặn chuông đồng hồ báo thức để đến giờ đi đo, ghi
chép vào sổ thật rõ ràng. Tính ông khắt khe, làm hỏng thì ông nói cho nhức
xương, sai sót nhiều ông sẽ thay người khác.
Bà con
trong làng quý ông ở cái tính ngay thẳng, tằn tiện và chăm chỉ. Chính vì thế trạm
Đo nước là nơi mọi người thường hay lui tới tụ tập chuyện vặt, hút thuốc lào.
Khoảng năm 1964 ông được cung cấp một cái Ra-đi-ô kéo dây ăng-ten từ cây cột
cao chót vót, mỗi khi mưa giông là phải ra ngắt dây ăng-ten cắm xuống đất. Tối
thứ Bảy, trạm Đo nước chật kín người ngồi nghe Sân khấu truyền thanh. Ông ghét
nhất là bà nào cho trẻ nhỏ đến quấy khóc. Nghe ông quát thì con nít đang khóc
phải im bặt.
Chỗ ông
đặt báo Nhân Dân, cứ mấy ngày Bưu tá lại mang báo đến. Cha tôi thường mượn báo
của ông về đọc và tôi có nhiệm vụ ra hỏi bác Ngoạn xem đã có báo mới chưa.
Ông vốn
hay chuyện nên chúng tôi cũng nghe lỏm được ở ông khá nhiều, nào Tam quốc, Thủy
hử… rồi cổ tích, ngụ ngôn… Đôi khi ông cũng tâm sự hoàn cảnh gia đình với bà
con. Ông quê huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, khi ông ra bắc tập kết đứa con út
đang còn trong bụng mẹ. Những năm 1970, ông cảm thấy buồn bã vì xa nhà đã quá
lâu (gần 20 năm), nhiều lúc thấy ông đăm chiêu, tư lự.
Dân
miền Nam tập kết có nhiều ông không chịu được cảnh cô đơn đã cưới thêm bà khác.
Riêng ông, cũng một vài chỗ có ẩn ý nhưng ông kiên quyết khước từ. Qua các câu
chuyện thì biết rằng ông rất nặng tình với gia đình, với quê hương.
Sau năm
1975, ông về quê Quảng Ngãi. Nếu còn sống nay ông cũng phải ngoài 90 tuổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét