Trang

Thứ Ba, 26 tháng 8, 2014

ĐÂU RỒI



Sắp đến ngày Ông Táo về trời (23 tháng Chạp), tôi lại nhớ lại một thời xa xưa tro trấu, bếp núc. Tôi lớn lên đã nhìn thấy ba ông đầu rau nhà mình nghiêm trang ở góc bếp góp phần lo việc cơm nước cho cả nhà. Ba ông được làm nên từ đất sét lấy ngoài bãi sông. Khi xếp người ta cho ba ông chụm đầu vào nhau, nồi to nồi nhỏ cũng đều nâng đỡ được cả. Lúc ấy đun nấu bằng rơm là chính, nhà nào chả có một đống rơm rạ to ở góc sân.
Người ở quê tôi coi ba Ông đầu rau là hiện vật linh thiêng nên cung kính gọi là “Ông Bếp”. Khi đun nấu, bọn chúng tôi được người lớn dặn là cấm không được cầm que gõ vào Ông đầu rau.
Sự tích ba Ông đầu rau đã đi vào tiềm thức dân gian về một câu chuyện tình lãng mạn và bi thương. Tóm tắt chuyện như thế này:
“Xưa có hai vợ chồng nhà nọ rất nghèo túng, do vậy thường hay cãi vã nhau.
 Một hôm người chồng tức giận quá mà đánh vợ. Vợ bỏ nhà ra đi, sau này lấy một người chồng khác.
Sau khi vợ bỏ đi người chồng cũ hối hận, liền đi đến khắp nơi tìm kiếm, có khi hết cả tiền bạc phải đi ăn xin. Một bữa, đến xin ăn nhà kia thì phát hiện ra bà chủ chính là vợ mình. Hai người nhận ra nhau, tình xưa nghĩa cũ khó quên. Đang hàn huyên thì bất ngờ anh chồng mới đi làm về. Người vợ bèn giấu tạm chồng cũ vào đống rơm.
Người chồng mới ngoài đồng về tất bật đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Chồng cũ mệt nên ngủ say, bị cháy. Vợ nhảy vào lửa cứu cũng bị chết. Người chồng mới nhìn thấy vợ bị thiêu xông vào cứu nhưng cũng bị chết.
Ngọc Hoàng cảm kích và cho họ hóa thân làm ba ông đầu rau”   
Vậy là không phải ba ông đầu rau mà chỉ có hai ông và một bà. Chẳng qua là thuận miệng nên cứ gọi vậy.
Thời cuộc biến cải, vật đổi sao dời, ba ông đầu rau đã dần dần lùi vào dĩ vãng. Các ông bà đã hoàn thành sứ mạng cao cả ngàn năm của mình với nhân loại, nay chỉ còn đọng lại trong trí nhớ của những người lớn tuổi.
Bếp kiềng sắt đã được thay thế các Cụ đầu rau, vừa gọn nhẹ vừa cơ động thuận tiện cho việc di chuyển. Rừng bị tàn phá, củi mỗi ngày một hiếm hoi, nên cái bếp than tổ ong, bếp dầu đã thịnh hành nơi phố xá chật hẹp.
Những năm gần đây bếp ga đã trở thành phổ biến. Lúc đầu nó chỉ có ở thành phố, những gia đình khá giả. Nay thì khắp các vùng thôn quê, hang cùng ngõ hẻm, chẳng mấy ai không biết cái bếp ga.
Nhân dân ta có nghĩa, có tình ghi nhớ công lao của vị Thần đã cai quản bếp lửa cho nhà mình vất vả cả năm nên đặt ra lệ cúng Ông Táo.
Chuẩn bị đến ngày 23 tháng Chạp, dân quê tôi thường đi chợ mua một bộ ba cái mũ ông táo, 2 của ông và 1 của bà về đặt lên bàn thờ.
(Có sự lầm lẫn khi nói rằng ngày ấy là ông Công, ông Táo chầu trời. Kỳ thực ông Táo là ông thần chỉ trông coi việc bếp núc, còn ông Công trông coi việc nhà cửa)
 Ngày 23 tháng Chạp là ngày ông Táo cưỡi cá chép lên Thiên đình tâu với Ngọc Hoàng về các công việc của mình trong suốt một năm ròng. Vì trông coi nhà bếp nên hình đại diện của ông là mặc áo quần màu đen, đội mũ cánh chuồn đen và đi giầy đen.
Tuy vậy ông Táo thời mới đã có diện mạo khác xưa nhiều lắm, áo quần sặc sỡ, da trắng bảnh bao. Ông không chỉ tâu lên Ngọc Hoàng chuyện bếp núc, dưa cà mà còn mọi sự dưới trần gian.  Đến nỗi bản cáo tấu trình của ông mà đụng đến những vấn đề “nhạy cảm” thì coi chừng sẽ bị Nam Tào tuýt còi bắt viết lại. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét