Trang

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

ÔNG ĐẶNG THỊNH HUỲNH


Tôi chỉ ở gần ông có hai năm, nhưng thực sự rất có ấn tượng. Ông đi nhiều, biết lắm, kể chuyện hấp dẫn sôi nổi, đặc biệt là óc hài hước
Ông về nhà năm 1965. Năm ấy ông bị hồi hương do gia đình dính vào địa chủ mà thế nào ông lại lọt lưới vào học đại học. Còn một lý do cũng đáng để ông phải về nữa là có một ông anh trốn vào Nam năm 1954 và một ông anh bị đi tù năm 1963.
Thấy ông về lũ trẻ con chúng tôi vui vì được tăng thêm sức mạnh. Ông to khỏe, vạm vỡ, làm cái gì cũng nhẹ như không. Chả biết phải về như vậy ông có chán đời không nhưng bên ngoài vẫn cứ thấy ông cười, cái cười to vang thoải mái.
Thích nhất là buổi chiều mấy chú cháu ra sông đi tắm. Nước thủy triều lên, trong mát và sạch. Ông bơi sang bên kia sông rồi bơi về để chúng tôi bám theo. Cái cảnh ấy giống như con trâu và mấy con nghé.
Tôi mới học lớp 4 chưa hiểu biết bao nhiêu nhưng ông đã giảng giải cho tôi về Kinh tuyến, Vĩ tuyến, về các miền đất lạ trên hành tinh. Nhớ nhất là các chuyện đi rừng với Đoàn thăm dò địa chất của ông, các tập tục lạ lùng của đồng bào dân tộc thiểu số. Giọng ông  vừa trầm hùng vừa ma quái đã cuốn hút lũ chúng tôi.
Vậy là học xong Đại học Bách khoa ngành Mỏ năm 1963, ông chỉ hành nghề được có 2 năm thì bị triệt hồi.
Về quê ông tập làm nông và chăm nom cha mẹ già. Cách làm nông của ông cũng khác người. Ở quê tôi, lần đầu tiên ông gieo hạt giống rau bắp cải, xu hào và thu được thành công. Lần đầu tiên ông đi mua ngỗng về nuôi và cũng thành công. Ông còn đào một cái ao dự định nuôi lươn và ếch.
Đến nhà ông, khách sẽ phải ngạc nhiên về một anh nông dân quê mùa mà đã đọc sách “Những người khốn khổ”, “Truyện ngắn Sê-khốp”… Ông có một tủ sách nhỏ nhưng cũng phải hàng mấy trăm cuốn. Lúc ấy chúng tôi còn bé, không đáng để ông chia sẻ nội dung những sách đó. Rất tiếc sau trận bom năm 1967, nó đã bị phá hủy tan tành.
Ông có một chiếc kèn ac-mô-ni-ca được cất kỹ trong hộp, thỉnh thoảng lại lấy ra thổi. Đầu xuân Bính Ngọ (1966), Hợp tác xã tổ chức đêm vui văn nghệ ở ngoài đình, ông đã lên sân khấu độc tấu bản “Trường ca Tây Nguyên” được bà con vỗ tay nhiệt liệt. Họ còn đòi diễn lại. Sau đấy ông độc tấu tiếp bài “Vì nhân dân quên mình”.
Mặc dù vui nhộn như vậy nhưng ông cũng khá trực tính.
Có một lần, một vị áng chừng là cán bộ vào nhà tôi hỏi cha tôi có bán ngỗng không. Cha tôi nói giá cả của các loại ngỗng trong nhà. Lão ta lên mặt dạy đạo đức  rằng: thiếu tinh thần phục vụ nhân dân, nặng về kinh doanh thu lợi nhuận… Cha tôi nhẫn nhục cho qua vì ngại va chạm với cán bộ phiền hà.
Khi gã kia đi khỏi thì ông Huỳnh sang. Biết chuyện, ông tức điên lên:
-  Sao anh không sang gọi em. Không thể để cái thói hống hách như thế được.
Cha tôi chỉ cười và gàn ông. Ông mới về nên chưa thể hiểu được thực trạng của quê nhà lúc đó.
Ngày 20 tháng Tư năm Đinh Mùi (1967) ông bị bom vùi và mất khi mới 33 tuổi. Lúc ấy vợ ông vừa có thai được 3 tháng.
Nay Đặng Thịnh Phong, con trai ông đang cùng cả gia đình làm ăn và định cư tại Tây Nguyên.

1 nhận xét:

  1. Anh Kích ơi, em đính chính nè. Chú Huỳnh sinh năm 36, vậy nên khi mất chú 31-32 tuổi, tùy theo cách tính. Em lúc nào cũng nghĩ về chú thật trẻ trung, vì chú mất trẻ quá, anh gọi chú là ông làm em thấy chú bỗng trở nên già hơn nhiều.

    Trả lờiXóa