Những bức tranh hài của Họa sỹ Phạm Văn Tư đã gợi ý làm đề tài để tôi lan man về rượu.
Đọc
những chuyện thời Pháp thuộc, anh nông dân muốn vu vạ cho ai, chỉ cần đặt vò rượu
vào trong nhà người đó và báo cho nhà chức trách biết là ai đấy có thể bị ngồi
tù. Tàng trữ rượu lậu lúc xưa là tội rất to.
Trong
bài thơ Á-tế-Á-ca chúng tôi học hồi cấp 2:
“Rượu ta nấu, nó cho rượu lậu
Muối ta làm nó bảo muối gian…”
Tất
nhiên, có thêm một lý do là để ngành sản xuất rượu của Nhà nước thuộc địa được
độc quyền.
Thời
nay đã khác, hầu như tỉnh nào cũng có một vài nhà máy bia, rượu. Doanh thu của
các nhà máy này luôn chiếm tỷ trọng đáng kể trong ngân sách của địa phương. Làng
tôi độ trăm hộ dân cũng có tới vài lò sản xuất rượu, nấu ra bán không kịp. Người
dân nghèo cũng có thể mua rượu uống vì giá rất rẻ, chỉ có chưa đầy 20 ngàn một
lít, có khi rẻ hơn cả nước khoáng đóng chai.
Hồi
tôi còn nhỏ, đang chiến tranh, nấu rượu cũng bị cấm vì lương thực phải để cung
cấp cho bộ đội ở chiến trường. Rượu mang đi bán cho vào cái bong bóng lợn, mà
phải giấu diếm, chui lủi, lén lút. Không biết có phải do vậy mà cái tên rượu
“cuốc lủi” ra đời hay không.
Trên
miền ngược, rượu đã thoải mái từ lâu. Đồng bào tự sản xuất lương thực sắn, ngô.
Men rượu chỉ đơn thuần là một loại lá cây rừng. Người Mông xuống chợ có 2 vợ
chồng và con ngựa. Khi về là hình ảnh con ngựa thồ vắt ngang anh chồng đã say
xỉn. Vì thế mà người Mông có câu: “Tan chợ không say không phải là người tốt”.
Ở
thành phố tình trạng bia rượu cũng khá náo nhiệt. Có những quán bia vào những
buổi chiều hè, người đông vô kể, ngồi tràn lan cả ra vỉa hè, hàng trăm người chen
chúc nhau, nói cười đinh tai nhức óc. Dân nhậu còn có lối uống “xếch”, chỉ có
rượu với vài ba quả ổi, quả xoài xanh. Lại phải uống hết mình, không xỉn là
cuộc nhậu coi như thất bại.
Đi
ăn uống, giao lưu có bia rượu sợ nhất là có một anh cầm càng
hô lớn 1…2…3…. Tức thì cả mấy chục con người cùng đồng thanh: "Dô…ô…".
Một hiệp phải hô liên tiếp mấy lần như vậy. Tiếng hô to vang động làm rung chuyển
cả quán. Bọn trẻ choai choai bây giờ cũng mau chóng học được bài này ở các bậc
cha anh.
Nhiều
anh trước đây cũng chỉ uống vừa vừa thôi, từ ngày được cất nhắc có tí chức vụ
thì tự nhiên tửu lượng đi lên trông thấy. Bởi vì nếu không biết nhậu, sẽ bị khó
trong các cuộc giao bôi với khách, khi cần không uống đỡ được cho sếp. Câu nói
xưa của các cụ như một tấm bùa cho các anh làm bảo bối: “Nam vô tửu như kỳ vô
phong” (con trai không có rượu thì rũ như cờ không có gió)
Các
đồng chí làm bên công an thì uống rượu tương đối dữ dằn. Đến nỗi có thời Bộ
trưởng đã phải ra chỉ thị cấm uống rượu. Tôi quen một cậu bạn làm công an những
năm 90, uống rượu khá tốt. Nó bảo: Đấy mới là chỉ thị 33, chuẩn bị có chỉ thị
65 nữa cơ (33 và 65 là dung tích các chai rượu). Nó uống rượu đến nỗi sau cơ
quan phải cho thải hồi vì rượu vào bết quá không thể làm việc được.
Tôi
không thấy mấy ai uống nhiều rượu mà vẫn tỉnh táo và trường thọ. Ngược lại đã
chứng kiến rất nhiều các cuộc ra đi về cõi vĩnh hằng mà nguyên nhân sâu xa là
do rượu tàn phá cơ thể. Người già có, người trẻ có, thậm chí có người lúc trai
tráng vô cùng khỏe mạnh và sáng láng nhưng rượu đã biến anh ta thành một kẻ
thân tàn, ma dại, nửa ngợm, nửa người.
Nghe
nói ở các quốc gia phát triển họ cấm bán rượu cho người dưới 18 tuổi, họ không
cho quảng cáo, họ đánh thuế rượu rất nặng. Cửa hàng nào cố tình sẽ bị phạt gấp
nhiều lần lợi nhuận do anh vi phạm.
Cả xã
hội cùng chung tay tấn công tệ nạn ma túy vì những tác hại do nó gây ra. Nhưng
để cho người dân tự do rượu chè be bét cũng là mối hại lâu dài cho cả bản thân,
gia đình và xã hội. Nòi giống tương lai, đạo đức luân lý sẽ suy tàn theo rượu.
Không thiếu gì các vụ án hình sự, các tai nạn giao thông mà rượu là nguyên nhân.